Tóm tắt
Nói đến khảo cổ học tiền sơ sử miền Nam Việt Nam có lẽ không quá khi nhận định rằng vùng đất Đông Nam Bộ là địa bàn khởi đầu và xuất phát cho mọi những hội tụ và lan tỏa các luồng văn hóa. Các dấu vết hoạt động của người cổ trải dài suốt từ thời đồ đá đên thời kim khí và thời lịch sử và bao phủ trên nhiều loại địa hình khác nhau. Yếu tố “Thiên thời-Địa lợi-Nhân hòa” của vùng đất Đông Nam Bộ từ lâu đã được nhiều người nghiên cứu dùng để lý giải mức độ mật tập và tính chất đa dạng của các di tích khảo cổ học ở đây. Bài viết này đặt Đông Nam bộ – Đồng Nai trong nền cảnh khu vực thời sơ sử (thế kỷ 5 TCN đến thế kỷ 1,2 CN) nhằm tập trung vào một số vấn đề:
- Bối cảnh thời sơ sử Việt Nam và Đông Nam Á lục địa
- Các cộng đồng cư dân thời sơ sử trên đất Đồng Nai
- Giá trị của di sản khảo cổ thời sơ sử và phát triển bền vững.
Từ khóa: Đông Nam bộ, Đồng Nai, Sơ sử, Di sản khảo cổ học, Phát triển Bền vững…
Bài viết đầy đủ
1. Đông Nam Á và Việt Nam thời Sơ sử
Đông Nam Á lục địa thời Sơ sử
Thời Sơ sử ở Đông Nam Á thường được xác định trong khoảng thời gian từ thế kỷ 5TCN đến thế kỷ 5CN, khi đa phần các cộng đồng cư dân làm nông nghiệp định cư trên các địa hình đồng bằng ven sông và ven biển có nhiều nghề thủ công phát triển, họ chế tạo và sử dụng công cụ bằng kim loại đồng và sắt ở phổ rộng và buôn bán trao đổi trở thành ngành kinh tế quan trọng, đóng góp đáng kể vào phân hóa của cải và từ đó là phân biệt thân phận trong xã hội. Ở Đông Nam Á lục địa, mức độ phức hợp xã hội cao và phân tầng tinh vi hơn ở Đông Nam Á hải đảo. Trong thời Sơ sử ở Thái Lan qua những tài liệu khảo cổ học có thể nhận diện tính chất văn hóa của từng cộng đồng cư dân sinh sống trên các địa hình và vùng miền khác nhau. Trên cao nguyên Khò Rạt dọc theo rìa của châu thổ sông Chi và sông Mun có nhiều điểm cư trú và mộ táng với những tầng văn hóa thuộc sơ kỳ thời đại đồ sắt phát triển trực tiếp từ nền tảng đồ đồng trước đó, điển hình như Noen U Loke, Ban Chiang Hian (trung lưu sông Chi), Non Chai… Cư dân sinh sống chủ yếu dựa trên sản xuất lúa gạo và đánh bắt cá, cả đồng và sắt đều được sử dụng rộng rãi trong đời sống hàng ngày. Một số làng cư trú có thành đất và hào bao quanh. Miền Trung Thái Lan với địa hình đồng bằng rộng lớn được bồi đắp bởi sông Chao Phraya cùng với hệ thống sông Bang Pakong ở phía đông và Mae Klong ở phía tây, những lớp cư trú thời đại đồ sắt theo kết quả nghiên cứu những năm gần đây phát triển trực tiếp trên cơ sở văn hóa vật chất của thời đại đồng và mặc dù có sự đa dạng lớn và được chia thành ba khu vực. Thuộc thời đại đồ sắt có một số địa điểm Ban Don Ta Phet (BDTP), Tham Ongbah, Noen Ma Kok, Ban Lum Khao, Ban Wang Hi…trong đó BDTP có vai trò quan trọng nhất. Kết quả của ba mùa khai quật cho thấy đây là khu nghĩa địa chôn trong một thời gian ngắn và có niên đại khởi đầu khoảng thế kỷ 4 TCN. Ban Don Ta Phet cung cấp một khối lượng lớn hiện vật bằng sắt, đồng, thủy tinh, đá quý… nhiều đồ tùy táng là sản phẩm trao đổi với bên ngoài, đặc biệt là những đồ đựng bằng đồng với hàm liệc thiếc rất cao, hạt chuỗi khắc axit, hạt chuỗi carnelian tạo hình con vật có nguồn gốc từ Ấn Độ, khuyên tai hai đầu thú có nguồn gốc từ Việt Nam… Địa điểm này có một khối lượng lớn hạt chuỗi các loại, xét về số lượng, loại hình, chất liệu có thể so sánh với hạt chuỗi phát hiện được ở khu mộ táng văn hóa Sa Huỳnh Lai Nghi (Điện Bàn Quảng Nam). Đặc biệt gạo và thóc cũng đã được tìm thấy trong một số bát đồng BDTP, hiện tượng tương tự cũng thấy ở Lai Nghi
Ở bán đảo Thái Lan cảng thị Khao Sam Kaeo (KSK)… có vai trò đặc biệt quan trọng, đây là nơi kết nối Đông Nam Á lục địa với thế giới Ấn Độ và Trung Hoa đồng thời cũng là nơi giao lưu của nhiều nhóm văn hóa cư dân Đông Sơn, Sa Huỳnh, Đồng Nai với các cư dân Thái Lan cùng thời. Cảng thị Khao Sam Kaeo ở bán đảo Thái Lan (niên đại khoảng 400–100 năm TCN) có vị trí chiến lược giữa Ấn Độ Dương và Biển Đông cho thấy nhiều bằng chứng về mối quan hệ với văn hóa Ấn Độ, Hán Trung Hoa và mối liên hệ nội vùng, nhiều hiện vật giống ở Ban Don Ta Phet, Lai Nghi…. Đây là trung tâm sản xuất, trao đổi đồ trang sức bằng đá và thuỷ tinh. Sưu tập tàn tích sinh khảo cổ học cho thấy một số loại hạt có nguồn gốc từ Nam Á và Đông Á như đậu mung, đậu răng ngựa và kê đuôi chồn. Ở đây cũng có rất nhiều chứng cứ về sản xuất lúa gạo tại chỗ.
Đối với Thái Lan, đặc biệt là Đông Bắc Thái Lan, công nghiệp khai khoáng luyện kim đen và công nghệ làm muối có vai trò cực kỳ quan trọng. Sắt, đồng đỏ, đồng thau và muối được xem là tảng nền kinh tế đẩy nhanh quá trình hình thành những xã hội tiền nhà nước hay dạng Tù trưởng Quốc / hay Lãnh chủ (Chiefdoms) của những cộng đồng dân cư đông đúc và lớn mạnh. Đây là cơ sở cho sự hình thành nền văn minh sớm ở đông bắc Thái Lan, tương tự như ở một số khu vực khác của Đông Nam Á[1]. Đồ đồng Đông Bắc Thái Lan có nhiều nét tương đồng với đồ đồng của văn hóa Đồng Nai giai đoạn Dốc Chùa-Suối Chồn.
Thời đại đồ sắt ở Lào bên cạnh những phát hiện ở Cánh đồng Chum và Lao Pako, nghiên cứu quan trọng nhất mang nhiều ý nghĩa đối với sơ kỳ thời đại đồ sắt Đông Nam Á lục địa là ở Sepon, mỏ đồng vàng ở nơi giáp ranh giữa ba huyện Vilabouly, Sepon và Boualapha, tỉnh Savanakhet. Những cuộc khai quật ở đây cho biết cách đây khoảng 3000 năm đã có những hoạt động khai thác đồng và đúc các thỏi nguyên liệu đồng để trao đổi với nhiều nơi khác trong khu vực Đông Nam Á[2]. Hoạt động khai thác tăng mạnh trong những thế kỷ cận kề công nguyên. Bên cạnh dấu tích của khai khoáng luyện kim, tại đây dấu vết cư trú và mộ táng của cư dân sơ kỳ thời đại đồ sắt cũng được xác định, đồ đồng có nhiều nét chung với đồ đồng Đông Sơn, một số mộ chum rất giống mộ chum trong văn hoá Sa Huỳnh. Nghiên cứu gần đây nhất cho biết những chiếc qua đồng được làm tại chỗ[3]. Sepon có thể giúp tìm hiểu nguồn nguyên liệu đồng mà cư dân Đồng Nai cổ dùng để chế tạo công cụ và vũ khí qua phân tích đồng vị chì.
Gần đây ở Campuchia có hai phát hiện quan trọng, phát hiện thứ nhất là ở Angkor Borei thuộc tỉnh Takeo, miền Nam Cămpuchia. Angkor Borei, lớp cư trú dưới cùng ở Angkor Borei được xác định thuộc thời đại sắt sớm và việc xác định niên đại chủ yếu dựa trên đồ gốm. Lớp văn hóa sớm ở Angkor Borei cho thấy cơ tầng văn hóa sơ kỳ sắt ở đây cũng như ở nhiều vùng khác của Đông Nam Á đóng vai trò nền tảng cho sự hình thành các xã hội có tính phức hợp cao và sự hội nhập của các cộng đồng cư dân thời đại kim khí vào mạng lưới trao đổi những mặt hàng có giá trị biểu trưng cao và thể hiện thân thế địa vị xã hội.
Phát hiện thứ hai ở Prohear, tỉnh Prey Veng, Trong hai mùa khai quật, các nhà khảo cổ học đã phát hiện 52 ngôi mộ (phần lớn diện tích của địa điểm này đã bị những người đào trộm đồ cổ tàn phá tan hoang) với 500 đồ tùy táng, 2700 hạt chuỗi và hàng nghìn mảnh gốm. Niên đại của Prohear: Khoảng 2000 năm cách ngày nay (có thể kéo dài đến thế kỷ 3, 4 CN). Những hiện vật khảo cổ của địa điểm Prohear cho thấy những tương đồng về chất liệu và loại hình với nhiều địa điểm cùng thời ở Đông Nam Á như Giồng Lớn (Bà Rịa, Vũng Tàu, Việt Nam), Hòa Diêm (Khánh Hòa, Việt Nam), Lai Nghi (Quảng Nam, Việt Nam), Gò Ô Chùa (Long An, Việt Nam)… Ban Don Ta Phet (Thái Lan)… nhiều trống đồng kiểu Đông Sơn đã được tìm thấy trong các ngôi mộ… Đáng chú ý là luận điểm của nhóm tác giả về hệ thống trao đổi trống đồng (bronze drum network), hệ thống trao đổi đồ vàng (golden network)… ở châu Á những thế kỷ trước sau Công nguyên. Có thể có nhiều vấn đề cần trao đổi, cần được nghiên cứu kỹ hơn, nhưng những địa điểm như Prohear, Giồng Lớn, Lai Nghi, Hòa Diêm… cung cấp nhiều chứng cứ để khẳng định mức độ phát triển cao của cơ tầng văn hóa bản địa Đông Nam Á trước khi có những cuộc tiếp xúc và giao lưu sôi động với những trung tâm văn minh thế giới. Trống đồng Đông Sơn đã được tìm thấy trong một số ngôi mộ Prohear, Campuchia.
Thời Sơ sử ở Việt Nam
Thời sơ sử trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay có ba trung tâm văn hóa tại ba miền bắc – trung và nam.
Văn hóa Đông Sơn. Cho đến nay trên 200 di tích thuộc văn hoá Đông Sơn đã được tìm thấy ở Việt Nam. Nhận thức về văn hoá Đông Sơn của các nhà khảo cổ học Việt Nam, dưới khái niệm một văn hoá khảo cổ ngày càng rõ nét. Về địa bàn phân bố, các di tích này chủ yếu tìm thấy ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam. Về niên đại, tồn tại trong khung thời gian từ nửa đầu Thiên niên kỷ I trước Công nguyên đến 1- 2 thế kỷ sau Công nguyên. Về tính chất văn hoá thuộc phạm trù thời đại đồ sắt. Văn hoá Đông Sơn có nguồn gốc bản địa, từ các di tích Tiền Đông Sơn ở 03 lưu vực sông chính: Sông Hồng, Sông Mã và Sông Cả, ba loại hình địa phương của văn hóa Đông Sơn cũng được xác định theo địa vực của các sông này. Chủ nhân văn hoá Đông Sơn được xác định là người Việt cổ. Đối với các di tích hoặc di vật kiểu văn hoá Đông Sơn ở ngoài Việt Nam có thể gọi chung là kiểu Đông Sơn (Dongson Like) hay văn hoá dạng Đông Sơn (Dongsonoid). Cư dân văn hóa Đông Sơn đạt được nhiều thành tựu to lớn, đó là đã chiếm lĩnh các đồng bằng, dọc tất cả những lưu vực các con sông lớn, các ngã ba sông, các vùng trung du, miền núi và hải đảo; người Đông Sơn đã tập trung thành từng làng rộng lớn, trù mật. Công nghệ luyện kim đạt đến đỉnh cao, đúc rất nhiều sản phẩm bằng đồng, từ đơn giản đến những sản phẩm như trống, thạp đồng, thố đồng. Các thao tác như làm khuôn, tạo vật pha chế hợp kim rất thành thục và phát minh nghề luyện sắt. Người Đông Sơn đã tiến hành một nền nông nghiệp trồng lúa nước khá rộng rãi, trồng nhiều thứ lúa và nghề làm vườn, chăn nuôi gia súc. Một nền nông nghiệp dùng cày, lưỡi cày bằng kim loại, cày lật đất và dùng sức kéo bằng động vật. Trên cơ sở những thành tựu đạt được ở lĩnh vực luyện kim và nông nghiệp lúa nước cùng các ngành nghề thủ công bước đầu được chuyên hóa, cư dân Đông Sơn đã tạo được một hạ tầng cơ sở khá vững chắc, cho việc xuất hiện một nhà nước đầu tiên trên lãnh thổ Việt Nam cũng như khu vực Đông Nam Á. Trong các nền văn hóa thời sơ sử ở Việt Nam, chỉ có trong văn hóa Đông Sơn là tìm được dấu tích của nơi cư trú có phòng ngự, đó là Cổ Loa nơi có 03 vòng thành, hào bao bọc, với cơ sở kinh tế vững mạnh, Cổ Loa thường được coi là kinh đô của Nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương có tổ chức quân đội, trang bị nhiều loại vũ khí, đặc biệt là loại cung nỏ phức tạp và lợi hại.
Văn hóa Sa Huỳnh (thế kỷ 5 TCN đến thế kỷ 1,2 SCN). Cho đến nay, có khoảng 90 địa điểm văn hóa Sa Huỳnh đã được phát hiện ở hầu hết mọi địa bàn từ vùng rừng núi đến các đảo ven bờ của các tỉnh miền Trung Việt Nam với địa bàn chính từ Thừa Thiên Huế đến Ninh Thuận, Bình Thuận[4], trong đó có 37 địa điểm đã được khai quật hoặc thám sát. Các di tích chủ yếu là các khu mộ táng phân bố đậm đặc ở các vùng đồng bằng lưu vực của các dòng sông, thưa dần ở các vùng đồi, vùng núi cao và trên các đảo ven bờ. Đặc trưng chính của văn hoá Sa Huỳnh là táng thức dùng chum vò gốm lớn làm quan tài mai táng chôn thẳng đứng, táng tục khá đa dạng như hoả táng, hung táng và cải táng, mộ huyệt đất đôi khi cũng gặp trong những di tích của văn hoá Sa Huỳnh nhưng không nhiều nếu so với mộ dùng quan tài gốm. Dựa vào những dấu tích khảo cổ học và dữ liệu môi trường sinh thái và so sánh dân tộc học có thế thấy các cộng đồng cư dân văn hoá Sa Huỳnh có cơ cấu kinh tế đa dạng, kết hợp giữa kinh tế sản xuất, kinh tế khai thác, sản xuất thủ công và trao đổi buôn bán. Buôn bán bằng đường biển và đường sông có vai trò đáng kể đóng góp vào nền kinh tế của cư dân Sa Huỳnh. Không kể đến những quan hệ trao đổi trên biển giữa các cộng đồng dân cư Đông Nam Á từ thời tiền sử, biển Đông Nam Á thực sự tham gia vào hành trình hàng hải quốc tế Đông -Tây, nối giữa Địa Trung Hải, Ấn Độ và Đông Nam Á từ những thế kỷ 3,4 trước Công nguyên. Từ những chứng cứ vật chất và ghi chép trong thư tịch ta có thể thấy trong khoảng thời gian những thế kỷ 3 TCN đến thế kỷ 3 SCN, bờ biển của các lãnh địa Đông Nam Á tham gia ngày càng tích cực vào con đường tơ lụa phía nam (Southern Silk Road), đây là những chuỗi đường trao đổi biển nối các đế chế La Mã và Trung Hoa và hệ quả là đã kéo theo hàng loạt những thay đổi kinh tế-chính trị-văn hoá trong khu vực. Với một cơ cấu kinh tế đa dạng, đa ngành thích ứng với điều kiện địa lý tự nhiên và nhân văn, các cộng đồng cư dân Sa Huỳnh có nền nông nghiệp đủ đáp ứng nhu cầu lương thực, khai thác tài nguyên rừng, núi biển, trao đổi hàng hoá qua đường bộ, sông và biển, đặc biệt là bằng đường biển. Cơ sở vật chất giàu có nền tảng tinh thần vững chắc của các cộng đồng cư dân Sa Huỳnh là nguồn lực cơ bản hình thành những nhà nước sớm Lâm Ấp và kiểu Lâm Ấp tạo dựng liên minh các tiểu quốc Champa từ những thế kỷ sau Công nguyên.
Các văn hóa sơ kỳ thời đại đồ sắt miền Nam Việt Nam. Các di tích sơ kỳ thời đại đồ sắt phân bố trên cả 5 tiểu vùng thuộc ba khu vựa cao nguyên đất đỏ, đất xám phù sa cổ và đồng bằng cửa sông. Gồm bảy nhóm: Nhóm 1: Nhóm di tích văn hóa Dốc Chùa. Nhóm này gồm các di tích Dốc Chùa lớp trên (Tân Uyên, Bình Dương) và Suối Chồn khu II (Xuân Lộc, Đồng Nai). Nhóm 2: Nhóm di tích Sa Huỳnh Đồng Nai, còn gọi là nhóm di tích Sa Huỳnh Nam. Đây là nhóm mộ chum chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Sa Huỳnh, gồm các di tích: Phú Hòa, Dầu Giây, Hàng Gòn (Xuân Lộc, Đồng Nai) và Suối Chồn khu I. Nhóm 3: Nhóm di tích phát triển theo tuyến Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt lên Giồng Lớn. Đây là nhóm di tích mộ chum cũng chịu ảnh hưởng của văn hóa Sa Huỳnh, gồm các di tích: Giồng Cá Vồ, Giồng Phệt (Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh) và Giồng Lớn (Long Sơn, Bà Rịa-Vũng Tàu). Nhóm 4: Nhóm di tích Bưng Bạc, Bưng Thơm. Đây là nhóm di tích tương đối biệt lập với các di tích cùng thời ở Nam bộ cả về không gian phân bố và đặc trưng di vật, gồm các di tích: Bưng Bạc và Bưng Thơm (Bà Rịa-Vũng Tàu). Nhóm 5: Di tích Gò Cây Tung. Nhóm này hiện nay chỉ mới có một di tích Gò Cây Tung (Tịnh Biên, An Giang). Nhóm 6: Nhóm di tích Gò Cao Su, Lò Gạch và Gò Ô Chùa. Nhóm này gồm các di tích Gò Cao Su, Lò Gạch và Gò Ô Chùa lớp dưới (Long An)[5]. Nhóm 7: Nhóm di tích đảo ven bờ và xa bờ từ Bà Rịa –Vũng Tàu đến Kiên Giang. Các cộng đồng cư dân sơ kỳ thời đại đồ sắt ở Nam bộ thường tập trung sống thành các làng định cư lớn ven các dòng sông hoặc ven biển, nơi có các doi đất cao thuộc bậc thềm phù sa cổ được thành tạo bởi các dòng sông. Bên cạnh đó cũng có làng định cư tại các vùng sình lầy ngập mặn với hệ thống nhà sàn gỗ. Cư dân cổ thực hành những loại hình táng thức khác nhau như mộ đất, mộ dùng chum vò gốm, gỗ, trống đồng làm quan tài mai táng và đặc biệt là mộ cự thạch-trác thạch mà những vùng văn hóa khác chưa thấy.
2. Các cộng đồng cư dân thời Sơ sử trên đất Đồng Nai
Các cộng đồng cư dân tập trung sinh sống thành các làng định cư lớn ven sông hoặc ven biển, nơi nơi có các doi đất cao thuộc bậc thềm phù sa cổ được thành tạo bởi các dòng sông. Bên cạnh đó cũng có làng định cư tại các vùng sình lầy ngập mặn với hệ thống nhà sàn gỗ. Những hình thức chôn cất người chết cũng khá đa dạng, bên cạnh truyền thống chôn mộ huyệt đất là mộ dùng chum vò gốm làm quan tài mai táng và loại mộ sử dụng các tảng đá lớn để xây dựng hầm mộ, cho đến nay chỉ ở Đồng Nai là có mộ cự thạch được xác định chắc chắn thuộc sơ kỳ thời đại đồ sắt với cấu trúc quy chuẩn và bộ di vật tương ứng kèm theo.
Nhóm cư dân chủ nhân những làng cư trú trên đồng bằng cửa sông (Đồng Nai) nơi giao thủy nước mặn và ngọt, chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều, những dấu vết cư trú được tìm thấy ở địa bàn của huyện Nhân Trạch hiện nay, những làng này thuộc vào hệ thống cư trú ở loại hình sinh thái ngập mặn thuộc các tỉnh Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu và Tp. Hồ Chí Minh kéo dài trong thời đại kim khí (từ 3000 năm đến sau 2000 năm cách ngày nay) với những khu cư trú, mộ táng và cảng thị, công xưởng Cái Vạn, Rạch Lá, Cái Lăng, Bưng Thơm, Bưng Bạc, Giồng Lớn, Giồng Cá Vồ…
Làng cổ Cái Lăng thuộc xã Long Thọ, huyện Nhân Trạch, tỉnh Đồng Nai hiện nay. Từ khi được phát hiện vào năm 1977 địa điểm đã được khảo sát nhiều lần và khai quật lần 1 vào năm 2000, khai quật lần 2 năm 2003. Đây là dạng di tích cư trú nhà sàn trên địa hình ngập mặn kế thừa và phát triển kiểu cư trú Cái Vạn, Rạch Lá cận kề nhưng có niên đại sớm hơn. Tại lần khai quật thứ nhất, những cọc gỗ nhà sàn với một đầu được đẽo nhọn và có những ngàm khoét đã được tìm thấy. Hiện vật từ nhiều chất liệu đá, gỗ, đồng, thủy tinh, mã não… Các nhà nghiên cứu cho rằng Cái Lăng có thể có niên đại cách ngày nay 2500 năm[6], với hai niên đại C14 từ gỗ 2.230±55 năm và 1.900±90 năm cách ngày nay và sự hiện diện của đồ mã não và thủy tinh có thể cho rằng niên đại 2500 năm là niên đại khởi đầu của cư trú, còn kết thúc có thể vào thế kỷ 1,2 TCN như nhận định của những người khai quật lần thứ 2 năm 2003.
Nhóm cư dân chủ nhân các mộ chum vò ở vùng gò đất đỏ bazan ven sông Đồng Nai. Các khu mộ chum gồm Dầu Giây, Hàng Gòn 9 (còn gọi là Suối Hàng Gòn hay Suối Đá), Phú Hòa, Suối Chồn. Từ cụm nghĩa địa này đã có 108 ngôi mộ được phát lộ và nghiên cứu, các quan tài bằng gốm dạng chum, vò và nồi chôn thẳng đứng, đáy một số mộ có đá kè và có nhiều khả năng tại mỗi nghĩa địa đã có một quy hoạch từ trước và mộ chôn trong một khoảng thời gian gần nhau nên hầu như không thấy hiện tượng mộ xếp chồng và cắt phá nhau. Theo nhiều nhà nghiên cứu, táng tục phổ biến ở đây là hỏa thiêu (dựa vào dấu vết còn lại như tro, than củi, xương vụn…), đối với trẻ em thì hung táng và cải táng. Những khu nghĩa địa và cư trú này theo đa số các nhà nghiên cứu thuộc về truyền thống văn hóa Sa Huỳnh mà cụ thể là loại hình phía Nam của văn hóa Sa Huỳnh cùng với nhóm di tích mộ chum ở Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Tuy nhiên cũng có những ý kiến cho rằng cụm di tích mộ chum vùng Xuân Lộc thuộc giai đoạn cuối cùng hay đỉnh cao của văn hóa Đồng Nai (hay văn hóa Dốc Chùa)[7]. “Trên cơ sở nghiên cứu những tài liệu sắt sớm ở Đồng Nai… Có thể nhận thấy rằng mộ chum thời đại sắt sớm ở Đồng Nai là một bộ phận cấu thành của văn hóa Sa Huỳnh, nhưng có nguồn gốc xuất xứ từ một nền tảng bản địa là truyền thống văn hóa đá mới – đồng ở Đồng Nai. Từ một xuất xứ như vậy, trong bước đường phát triển, thời đại sắt Đồng Nai đã tiếp thu những yếu tố mới mang đặc điểm văn hoá Sa Huỳnh. Điều này thể hiện trong một hệ thống phát triển từ Dốc Chùa (đỉnh cao thời đại đồ đồng) đến Suối Chồn II rồi Suối Chồn I (di tích cư trú) và cuối cùng là Suối Chồn I (di tích mộ táng). Thời điểm cuối cùng này đã có thể được gọi là Sa Huỳnh.[8] Đồ chôn theo mộ một mặt cho thấy có sự phân hóa nhất định về của cải do số lượng không đều trong mỗi mộ, mặt khác lại cho thấy mức độ phân hóa không lớn vì rất ít mộ không có đồ chôn theo. Trong nhóm đồ tùy táng, công cụ và đồ trang sức chiếm tỉ lệ lớn, vũ khí rất ít. Bên cạnh đồ tùy táng bằng đá, gốm, đồng, sắt … còn có đồ bằng thủy tinh, bạc và vàng. Mức độ phân hóa của cải phản ánh cấu trúc xã hội của lãnh địa với chế độ thủ lĩnh.
Nhóm cư dân chủ nhân của cự thạch Trong thời đại đồ sắt ở Đông Nam bộ nói chung và trên đất Đồng Nai nói riêng có sự sinh sống xen kẽ của nhiều cộng đồng cư dân, trong mỗi cộng đồng mức độ phức hợp của xã hội được thể hiện qua táng thức và nghi lễ khác nhau. Cự thạch là một dạng mộ táng với cách thức xử lý cấu trúc mộ rất độc đáo, không phổ biến rộng ở Đông Nam Á lục địa, nhưng thường gặp ở Nam Á và Đông Nam Á hải đảo và cho tới nay ở xã Hàng Gòn, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai hiện diện một loại hình cự thạch (mộ đá dạng trác thạch) có quy mô lớn và hình dáng quy chỉnh và có nhiều cơ sở đáng tin cậy để xác định niên đại nhất trong số các cự thạch phát hiện được ở Việt Nam từ trước cho đến nay. Theo khảo tả của người Pháp khi lần đầu tiên phát hiện năm 1927, cự thạch có kiến trúc gồm hai hàng trụ bao quanh hầm mộ. Kiến trúc trung tâm là hầm mộ hình khối hộp chữ nhật được ghép bằng 6 tấm đá hoa cương, kích thước dài 4.2m, rộng 2.7m và cao 1.6m.
Năm 1995, một cấu trúc cự thạch khác (cự thạch II) được các nhà khảo cổ học Việt Nam phát hiện, cự thạch II cách cự thạch I khoảng 60m về phía đông nam và đá hoa cương cũng là chất liệu chính để làm các tấm đan và các trụ..
Vào những năm 2006 và 2007, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tiến hành điều tra tổng thể và khai quật xung quanh và trung tâm của cự thạch. Quanh cự thạch đã phát hiện nhiều mảnh gốm cổ, dấu vết thanh tro và đất cháy, đáng chú ý là phát hiện bàn mài bằng đá có lỗ đeo và hai chiếc tù và bằng đồng. Hầu hết đồ gốm thu thập trong quá trình khảo sát và khai quật bên trong khuôn viên và xung quanh cự thạch là những mảnh vỡ của các loại bình vò nhỏ, bát chén có chân đế…chất liệu gốm mỏng và được làm bằng kỹ thuật cao, đó là lý do mà nhiều người đánh giá đây là những đồ mang chức năng cúng tế, nghi lễ.
Những cuộc khai quật sau này cũng cho thấy cận kề hầm mộ là nơi chế tác các tấm đan và cột đá, những tấm đan và cột đá chưa qua sử dụng cùng nhiều phế vật, mảnh tước đá cùng những công cụ lao động. Số lượng đá phế liệu không nhiều cho thấy người cổ đã sơ chế các tấm đan đá tại các mỏ xa và vận chuyển về Hàng Gòn để tiếp tục gia công, tạo ra những sản phẩm hoàn chỉnh. Về niên đại của cự thạch này cũng có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng hiện nay đa số người nghiên cứu đều cho rằng hầm mộ được xây dựng và tồn tại vào khoảng thế kỷ 1, 2 CN[9]. Những tù và bằng đồng tìm thấy ở đây có nhiều khả năng có quan hệ với kho vũ khí qua đồng Long Giao cách đó khoảng 5km với tư cách là một phần tổ hợp vũ khí của chiến binh. Mới đây khi làm sạch 02 hiện vật tù và này, người ta đã phát hiện bên trong của một tù và (ký hiệu Hàng Gòn A) có 10 mũi tên bằng đồng hình dạng tam giác dẹt với 05 kiểu khác nhau về hình dáng. Những mũi tên này được cho là đồ tùy táng chôn theo chủ nhân của cự thạch[10].
Như vậy, chủ nhân của cự thạch là một vị thủ lĩnh hoặc là dòng họ thủ lĩnh của xã hội lãnh địa không những hùng mạnh về kinh tế, có đủ sức người sức của để tiêu tốn một khối năng lượng lớn cho công trình này mà còn rất thông thạo binh nghiệp. Xã hội lãnh địa với thủ lĩnh chiến binh kiểu này có lẽ có những đặc điểm tương tự với các xã hội lãnh địa sở hữu trống đồng hay các chum mộ đá, gốm lớn… cùng thời ở cả Đông Nam Á lục địa và hải đảo.
Như vậy, vào khoảng nửa sau thiên niên kỉ trước Công nguyên cho đến những thế kỉ đầu Công nguyên, các hệ thống di tích văn hoá cổ ở Đồng Nai/ Đông Nam bộ đã có sự phát triển trong một bối cảnh chung trước những ảnh hưởng giao lưu với thế giới Nam Đảo và Nam Á bằng cả hai con đường, đường biển và đường bộ, mỗi con đường đều có những chuyển giao văn hóa riêng, trong đó đường sông và đường biển đóng vai trò quan trọng. Trên cơ sở gia tăng dân số đồng thời với phát triển các nền kinh tế thu lượm, nông nghiệp và các nghề thủ công nghiệp (dệt, gốm, đúc kim loại), buôn bán… đã tạo ra những tiền đề vật chất để sau này hình thành nên một cộng đồng cư dân đa dạng văn hoá trong thống nhất về mặt thể chế, đó là cội nguồn cho sự ra đời của nhà nước cổ đại đầu tiên ở khu vực Nam Bộ trong những năm đầu Công Nguyên – Vương quốc cổ Phù Nam.
3. Giá trị di sản khảo cổ học và xã hội đương đại
Các di sản khảo cổ học Đồng Nai dựa vào định nghĩa trong Luật Di sản của nước CHXHCN Việt Nam trong chương 1 điều 4.2 là “sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia”[11]. Trong Hiến chương về Bảo tồn và Quản lý Di sản Khảo cổ học của Hội đồng Quốc tế về Di tích và Công trình ICOMOS điều 1 xác định “Di sản khảo cổ là một phần của di sản vật chất mà nhờ các phương pháp khảo cổ học để thu thập được thông tin chính. DSKCH là tất cả các dấu tích về sự tồn tại của con người và bao gồm các địa điểm liên quan đến tất cả các biểu hiện của hoạt động của con người, các cấu trúc bị bỏ hoang và dấu tích của mọi thứ (bao gồm cả các địa điểm dưới đất và dưới nước), cùng với tất cả các di vật văn hóa liên quan”.[12]
Tuy nhiên, di sản khảo cổ học không chỉ là di sản vật thể, mặc dù trong các tài liệu pháp lý quốc gia và quốc tế dẫn ra trên đây chỉ chú trọng vào tính chất vật lý “sờ thấy được” và những chính sách cũng như chiến lược và phương pháp bảo tồn, bảo vệ, sử dụng và phát huy cũng chỉ ưu tiên những giá trị vật chất. Di sản khảo cổ học còn chứa đựng khía cạnh phi vật thể “không sờ thấy được” (intangible) và “sống” (living) bao gồm những giá trị tinh thần và biểu tượng những câu chuyện và ký ức, những kỹ thuật, kỹ năng bí truyền, những tri thức dân gian, những dấu ấn có thể cả tích cực và tiêu cực của quá trình lịch sử, chính sách văn hóa của mỗi thời kỳ, mỗi cộng đồng dân cư. Như vậy việc đánh giá giá trị di sản khảo cổ học để từ đó đưa ra chiến lược bảo tồn, sử dụng và phát huy sẽ cần đề cập tới cả hai khía cạnh vật thể và phi vật thể. Và nếu coi di sản là tài nguyên thì giá trị của tài nguyên di sản khảo cổ học theo chiều thời gian gồm giá trị quá khứ, giá trị hiện tại và giá trị tương lai. Giá trị của tài nguyên di sản khảo cổ học theo nguồn gốc và tính chất gồm giá trị tự thân được kế thừa, giá trị tái tạo, giá trị sáng tạo của cộng đồng chủ nhân hay sở hữu di sản và giá trị chia sẻ cho và với các cộng đồng khác.
Dựa trên những kinh nghiệm và bài học bảo tồn và phát huy giá trị di sản/nguồn tài nguyên văn hoá trong nước và nước ngoài, có thể thấy để bảo tồn và phát huy giá trị di sản khảo cổ học ở Đồng Nai để phát triển bền vững trước hết cần khảo sát tổng thể đánh giá trữ lượng tài nguyên, tìm hiểu những nhân tố tác động tới hiện trạng và tương lai của những nguồn tài nguyên này cả từ góc độ khách quan và chủ quan, tham khảo luật quốc gia, công ước quốc tế và đánh giá những kết quả đã đạt được cùng những bài học kinh nghiệm thực tế đê xây dựng kế hoạch bảo tồn và phát huy, đồng thuận nhiều mặt giữa bộ ba – Đào tạo/ Nghiên cứu – Quản lý – Khai thác/Phát huy. Đào tạo/Nghiên cứu đi trước một bước, dựa trên dữ liệu lập kế hoạch dài hơi và kế hoạch trước mắt để phát triển bền vững: Không chỉ bền vững trong khai thác và phát huy giá trị mà cả bền vững trong nghiên cứu, luôn cần có sự đồng hành bình đẳng giữa bộ ba này.
Chọn lựa để xây dựng những gói sản phẩm du lịch văn hoá dựa trên khai thác những giá trị Vật thể và Phi vật thể có cùng niên đại, cùng tính chất sáng tạo giá trị mới dựa trên cơ sở khoa học và thiết kế hiện đại. Mặt khác, một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo sự cân bằng giữa nghiên cứu bảo tồn và khai thác là tái đầu tư tương xứng từ nguồn lợi bán giá trị tài nguyên di sản quay trở lại tái tạo giá trị tài nguyên di sản.
QUẢN LÝ – NGHIÊN CỨU – SỬ DỤNG tài nguyên di sản trên cơ sở hợp tác chặt chẽ giữa người triển khai thực thi chính sách, người làm khảo cổ, người làm du lịch và cộng đồng là đá tảng cho sự thành công để quá khứ thành tài nguyên cho phát triển hiện tại và tương lai.
GS.TS.Lâm Mỹ Dung
GĐ Bảo tàng Nhân học
Trường ĐH KHXH&NV, ĐH Quốc gia Hà Nội
Tài liệu dẫn
Antonino Tucci, Thongsa Sayavongkhamdy, Nigel Chang & Viengkeo Souksavatdy (2014), Ancient Copper Mining in Laos: Heterarchies, Incipient States or Post-State Anarchists?, Journal of Anthropology and Archaeology, December 2014, Vol. 2, No. 2, pp. 01-15
Bùi Chí Hoàng (cb), Nguyễn Khánh Trung Kiên và Đặng Ngọc Kính 2017, Khảo cổ học Nam bộ thời tiền sử, NcbKHXH, Hà Nội
Eiji Nitta: The Dawn of the Civilization in the Mekong Basin and its Neighboring Regions. Htm.
Lê Xuân Diệm và Phạm Quang Sơn và Bùi Chí Hoàng, 1991, Khảo cổ Đồng Nai thời Tiền sử, Nxb Đồng Nai, tr.185.
Lương Chánh Tòng và Nguyễn Xuân Nam 2019, Phát hiện mới từ 2 hiện vật tù và di tích quốc gia đặc biệt mộ cự thạch Hàng Gòn, NPHMVKCH năm 2018, Hà Nội, tr. 272- 275.
MélissaCadetac,ThongsaSayavongkhamdy, ViengkeoSouksavatdy,ThonglithLuangkhoth, PhilippeDillmann, ChristopheCloquet, JustineVernet, PaoloPiccardo, NigelChang, Joh Edgar, EddyFoy, T.O.Pryce, 2019, Laos’ central role in Southeast Asian copper exchange networks: A multi-method study of bronzes from the Vilabouly Complex, Journal of Archaeological Science, Volume 109
Phạm Đức Mạnh, 1985, Suy nghĩ về không gian văn hóa Sa Huỳnh, Khảo cổ học, số 3, Nxb KHXH, Hà Nội. tr.31-46.
Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị Hoài Hương, 2008, Báo cáo khai quật, thăm dò di tích Mộ Cự thạch Hàng Gòn năm 2007, Tài liệu đánh máy, Trung tâm nghiên cứu Khảo cổ, Tp. Hồ Chí Minh
Vũ Quốc Hiền. 2008. “Vài suy nghĩ về các di tích mộ chum ở Đông Nam Bộ”, Thông báo Khoa học, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Hà Nội
Tài liệu truy cập trên Internet
Luật Di sản Văn hóa nước CHXHCN Việt Nam https://ditichkhanhhoa.org.vn/index.php/2017/05/30/luat-di-san-van-hoa/ Truy cập 7.10.2019.
ICOMOS 1990. Charter for the Protection and Management of the Archaeological Heritage. http://wp.icahm.icomos.org/wp-content/uploads/2017/01/1990-Lausanne-Charter-for-Protection-and-Management-of-Archaeological-Heritage.pdf. Truy cập
[1]Eiji Nitta: The Dawn of the Civilization in the Mekong Basin and its Neighboring Regions. Htm.
[2]Antonino Tucci, Thongsa Sayavongkhamdy, Nigel Chang & Viengkeo Souksavatdy (2014), Ancient Copper Mining in Laos: Heterarchies, Incipient States or Post-State Anarchists?, Journal of Anthropology and Archaeology, December 2014, Vol. 2, No. 2, pp. 01-15
[3] MélissaCadetac, ThongsaSayavongkhamdy, ViengkeoSouksavatdy,ThonglithLuangkhoth, PhilippeDillmann, ChristopheCloquet, JustineVernet, PaoloPiccardo, NigelChang, Joh Edgar, EddyFoy, T.O.Pryce, 2019, Laos’ central role in Southeast Asian copper exchange networks: A multi-method study of bronzes from the Vilabouly Complex, Journal of Archaeological Science Volume 109
[4] Ở khu vực các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình trước đây các học giả Pháp và gần đây các nhà khảo cổ Việt đã phát hiện một số khu mộ địa, gồm mộ chum và mộ đất mang nhiều đặc điểm với táng thức và táng tục của văn hoá Sa Huỳnh bên cạnh một số đồ đồng Đông Sơn. Tỉnh Quảng Trị có khá nhiều những phát hiện ngẫu nhiên về đồ đồng Đông Sơn, những cho tới nay chưa thấy di tích mộ chum kiểu Sa Huỳnh. Mộ chum kiểu Sa Huỳnh cũng được tìm thấy ở Tây Nguyên, Đông Nam bộ và một số đảo miền Nam Việt Nam.
[5] Vũ Quốc Hiền. 2008. “Vài suy nghĩ về các di tích mộ chum ở Đông Nam Bộ”, Thông báo Khoa học, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Hà Nội. tr. 116 – 128
[6]Bùi Chí Hoàng (cb), Nguyễn Khánh Trung Kiên và Đặng Ngọc Kính 2017, Khảo cổ học Nam bộ thời tiền sử, NcbKHXH, Hà Nội, tr.101.
[7]Phạm Đức Mạnh, 1985, Suy nghĩ về không gian văn hóa Sa Huỳnh, Khảo cổ học, số 3, Nxb KHXH, Hà Nội. tr.31-46.
[8]Lê Xuân Diệm và Phạm Quang Sơn và Bùi Chí Hoàng, 1991, Khảo cổ Đồng Nai thời Tiền sử, Nxb Đồng Nai, tr.185.
[9]Phạm Quang Sơn, Nguyễn Thị Hoài Hương ( 2008: Báo cáo khai quật, thăm dò di tích Mộ Cự thạch Hàng Gòn năm 2007, Tài liệu đánh máy, Trung tâm nghiên cứu Khảo cổ, Tp. Hồ Chí Minh
[10] Lương Chánh Tòng và Nguyễn Xuân Nam 2019, Phát hiện mới từ 2 hiện vật tù và di tích quốc gia đặc biệt mộ cự thạch Hàng Gòn, NPHMVKCH năm 2018, Hà Nội, tr. 272- 275.
[11] Luật Di sản Văn hóa nước CHXHCN Việt Nam https://ditichkhanhhoa.org.vn/index.php/2017/05/30/luat-di-san-van-hoa/ Truy cập 27.6.2019.
[12] ICOMOS 1990. Charter for the Protection and Management of the Archaeological Heritage. http://wp.icahm.icomos.org/wp-content/uploads/2017/01/1990-Lausanne-Charter-for-Protection-and-Management-of-Archaeological-Heritage.pdf. Truy cập 30.6.2019